Quân và dân Bắc Giang trong chiến dịch phòng không Hà Nội - Hải Phòng 1972
Ngày đăng:19-12-2022
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, Bắc Giang luôn được xác định là "tứ trấn", là "phên dậu" trong bảo vệ đất nước. Trong thời kỳ chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975), Bắc Giang là tỉnh có vị trí địa - chính trị, địa - quân sự đặc biệt quan trọng: là hậu phương vững chắc chi viện sức người, sức của cho miền Nam, tháng 5/1972 cảng Hải Phòng phải ngừng hoạt động, tuyến vận tải ven biển vào phía Nam bị cắt đứt, tỉnh Bắc Giang lúc này được ví như “cảng nổi” để tiếp nhận, trung chuyển lương thực, hàng quân sự và hàng thiết yếu do Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa viện trợ đưa qua các tỉnh phía Bắc vào miền Nam. Vì vậy, trong suốt những năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, đặc biệt năm 1972, tỉnh Bắc Giang là một trong những tỉnh thường xuyên bị đế quốc Mỹ dùng không quân đánh phá hết sức ác liệt.
Tượng đài chiến thắng không quân Mỹ ở đầu cầu đường sắt Bắc Giang (thành phố Bắc Giang).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tiên đoán “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng đưa B52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua mới chịu thua. Mỹ nhất định thua, nhưng nó chỉ chịu thua khi thua trên bầu trời Hà Nội”. Và đúng như dự đoán, để cứu vãn tình thế thất bại nặng nề cả về quân sự, chính trị và ngoại giao, đồng thời gây sức ép buộc ta phải nối lại cuộc đàm phán ở Paris, chấp nhận ký Hiệp định theo các điều khoản do Mỹ áp đặt. Mục tiêu nhằm hạn chế sự chi viện cho cách mạng miền Nam, làm giảm thế và lực của ta, đe dọa phong trào đấu tranh vì hòa bình của nhân dân thế giới. Ngày 14/12/1972, Tổng thống Mỹ Ních-xơn chính thức thông qua kế hoạch tập kích chiến lược bằng máy bay B52 vào Hà Nội. Đúng 19 giờ 40 phút ngày 18 tháng 12 năm 1972, máy bay B52 Mỹ bắt đầu ném bom xuống bầu trời Hà Nội mở đầu cho chiến dịch 12 ngày đêm, mở đầu cuộc tập kích bằng không quân với quy mô lớn vào Hà Nội, Hải Phòng và một số địa phương miền Bắc.
Trên địa bàn tỉnh Bắc Giang, trong đợt tập kích chiến lược này, Mỹ đã sử dụng 1.263 lần máy bay các loại, trong đó có 48 lần máy bay B52 và 67 lần máy bay F111 để đánh phá. Chúng đã thả xuống Bắc Giang 8.968 quả bom các loại (gồm 8.352 bom phá, 220 bom xuyên, 27 bom bi mẹ, 245 bom từ trường) và bắn 124 tên lửa; đánh phá 328 mục tiêu (trong đó 43 trận vào mục tiêu giao thông, 28 trận vào các khu dân cư) đánh vào 164 xã, 226 thôn, 8 khu phố trong toàn tỉnh. Riêng khu vực thành phố Bắc Giang, chúng ném 2.832 bom phá, 17 bom xuyên. Khu vực Kép, chúng ném 2.369 bom phá, 80 bom xuyên. Tính riêng đợt địch đánh B52 từ 18 đến 29 tháng 12, chúng đã trút xuống huyện Lạng Giang trên 3.000 quả bom phá, trong phạm vi 10 xã, 30 làng xóm, làm chết 92 người, bị thương 63 người, phá hủy bệnh viện, trường học và hàng trăm nhà dân bị đổ nát. Trong chiến dịch 12 ngày đêm, ngày nào cũng có máy bay B52 quần lượn trên bầu trời Bắc Giang, gây tổn thất nặng nề về người và hạ tầng, vật chất trong tỉnh.
Thực hiện chỉ đạo của Trung ương, ngày 29/5/1972 Tỉnh ủy Hà Bắc (nay là Bắc Giang) ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU về những nhiệm vụ chủ yếu trong tình hình mới; trong đó, đặc biệt coi trọng công tác phòng không nhân dân, đã chủ động chỉ đạo thành lập hệ thống chỉ huy phòng không từ tỉnh xuống xã; phát động quần chúng làm hầm hố thật tốt ngay từ khi địch chưa đánh phá và tổ chức các trạm quan sát báo động; chỉ đạo các cấp, các ngành ra sức phục vụ bảo đảm giao thông thông suốt; xây dựng và kiện toàn 2 tiểu đoàn pháo phòng không (Tiểu đoàn 73 và Tiểu đoàn 74), Đại đội Công binh 25 và 1 Trung đội thông tin, Dân quân tự vệ. Chủ động phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang đóng quân trên địa bàn và các tỉnh lân cận chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu đánh bại các đợt tập kích đường không của địch…
Để bảo vệ quê hương, góp phần chia lửa cùng với Hà Nội, Hải Phòng và các địa phương khác; các đơn vị tên lửa, pháo phòng không và không quân đóng quân trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã cùng Nhân dân các dân tộc trong tỉnh dũng cảm, kiên cường trụ vững, bám sát các mục tiêu được bảo vệ, ngoan cường đánh trả máy bay Mỹ. Trong Chiến dịch 12 ngày đêm, quân và dân Hà Bắc (nay là Bắc Giang) đã bắn rơi 16 máy bay Mỹ, trong đó có 1 chiếc máy bay cường kích F111 và 15 chiếc máy bay tiêm kích F4[1]. Là địa phương không chỉ tham gia chiến đấu, trực tiếp chiến đấu giỏi mà còn là nơi bắt sống nhiều giặc lái nhất. Trong 12 ngày đêm, quân và dân Bắc Giang đã bắt sống 12 giặc lái Mỹ. Tiêu biểu như: Dân quân xã Thanh Sơn (huyện Sơn Động) đã truy kích 20 km sang đất tỉnh bạn, phối hợp bắt được giặc lái Mỹ. Dân quân xã Cấm Sơn (huyện Lục Ngạn) bơi thuyền đuổi bắt tên giặc lái nhảy dù cách xa 7 km. Cả gia đình đồng chí Hoàng Văn Thịnh xã Dương Hưu (huyện Sơn Động) đã bắt sống 02 giặc lái Mỹ. Ông Tống Văn Thành, Hoàn Văn Bộ ở xã Thanh Hải (huyện Lục Ngạn) thấy giặc lái nhảy dù đã rút gióng chuồng trâu làm vũ khí đuổi bắt được một phi công Mỹ... Trên chiến trường, nhiều người con quê hương Bắc Giang tham gia chiến đấu ở các đơn vị chủ lực đã chiến đấu dũng cảm và lập nhiều chiến công như anh hùng phi công Nguyễn Văn Cốc (xã Bích Sơn, huyện Việt Yên) và nhiều người là chiến sĩ thi đua, dũng sĩ diệt Mỹ. Chiến công của quân và Nhân dân Bắc Giang đã đóng góp quan trọng vào chiến thắng “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, cổ vũ mạnh mẽ quân và dân hai miền Bắc - Nam.
Cùng với nhiệm vụ trực tiếp chiến đấu, Bắc Giang đã phát động Nhân dân các dân tộc trong tỉnh, lấy lực lượng vũ trang địa phương làm nòng cốt, tích cực tham gia phục vụ chiến đấu, trong đó có những yêu cầu rất khẩn trương, làm trận địa, sửa chữa gấp sân bay, cứu hàng. Nhân dân và lực lượng vũ trang trong tỉnh luôn sẵn sàng và đáp ứng mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống, bảo đảm phục vụ tốt các đơn vị chiến đấu. Đặc biệt trong công tác phục vụ chiến đấu bảo vệ sân bay Kép và các trận địa phòng không; sau các trận địch đánh phá ác liệt, hầu hết chỉ sau một đêm, quân và dân Bắc Giang đã sửa chữa, khắc phục hậu quả xong để kịp thời cho sáng hôm sau máy bay cất cánh chiến đấu; chỉ trong một đêm, quân và dân Bắc Giang đã cùng bộ đội làm xong trận địa tên lửa ở Cầu Lồ tại huyện Lục Nam để bảo đảm yếu tố bí mật, bất ngờ cho trận đánh.
Cùng với công tác phục vụ chiến đấu, tỉnh đã đào tạo, huấn luyện hơn 3.500 pháo thủ dự bị, đã chiến đấu hiệp đồng với các đơn vị pháo cao xạ đóng quân tại địa phương trên 400 trận. Tiêu biểu là các đơn vị dân quân Nam Hồng, Đa Mai, Song Mai, Mỹ Độ (thị xã Bắc Giang), Quang Châu (huyện Việt Yên), Tiền Phong, Đồng Sơn (huyện Yên Dũng). Toàn tỉnh đã huy động hơn 600.000 ngày công đào đắp trận địa, mở đường cho pháo cao xạ và tên lửa vào vị trí chiến đấu; đan 450.445 “áo giáp” rơm, mũ rơm cho bộ đội chống bom bi, mảnh đạn địch, 565 tấn lá ngụy trang cho các trận địa... Riêng năm 1972, các hợp tác xã nông nghiệp đã chi 310.000 ngày công, ủng hộ hơn 12.000 kg gạo, 4.000 kg thịt cho các đơn vị trực chiến[2]...
Đặc biệt, trong chiến đấu, phục vụ chiến đấu, chi viện tiền tuyến, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể trong tỉnh đã đoàn kết, hiệp đồng chặt chẽ, cùng nhau hoàn thành công tác quân sự địa phương, trong đó:
Ngành Công an kết hợp chặt chẽ cùng Cơ quan quân sự làm tốt nhiệm vụ bảo vệ trị an và tích cực tham gia công tác tuyển quân, góp phần vào việc xây dựng quân đội thường trực có chất lượng chính trị tốt; tăng cường tuần phòng, canh gác, vượt qua gian khó, nguy hiểm, phát hiện, ngăn chặn kịp thời những vụ trộm cắp hàng hóa, bảo vệ tài sản của Nhà nước và Quân đội.
Các ngành Lương thực, Thương nghiệp, Tài chính đã tích cực bảo đảm hậu cần tại chỗ cho các đơn vị bộ đội chủ lực đóng quân tại Bắc Giang, nhất là các đơn vị huấn luyện đi chiến đấu ở các chiến trường B, C; tham gia cứu thương, tiếp tế đạn cho các chiến sĩ như ở Yên Thế, Kép, Lục Ngạn; thành lập các quầy hàng trực chiến tại thị xã phục vụ kịp thời cho các lực lượng chiến đấu sau các trận địch đánh đêm, các đơn vị chiến đấu và các đoàn xe vận chuyển hàng hóa ra phía trước.
Ngành Văn hóa, Thông tin, Báo, Đài đã kịp thời động viên, tuyên truyền cho nhiệm vụ chiến đấu và các nhiệm vụ quân sự địa phương khác, đưa văn công, chiếu phim, sách báo đến tận trận địa để phục vụ giúp cho đời sống văn hóa, tinh thần của bộ đội, dân quân tự vệ trong chiến đấu ác liệt vẫn phấn khởi, vui tươi; phát động phong trào văn nghệ rộng rãi trong Nhân dân với chủ đề “Tiếng hát át tiếng bom” tiếp thêm tinh thần lạc quan trong cuộc sống, trong chiến đấu và nhiệt tình trong lao động, sản xuất của quân và dân ta.
Ngành Y tế trong những năm chiến tranh, nhất là trong năm 1972 đã tổ chức cấp cứu, kịp thời giải quyết thương vong cho Nhân dân và bộ đội; tổ chức hơn 1.200 tổ cấp cứu, 1.500 tổ cứu thương, tảỉ thương ở cơ sở, vừa tham gia cứu chữa thương bệnh binh, vừa phục vụ cho nhiệm vụ tuyển quân và tổ chức chữa bệnh ngắn ngày cho các phân đội dự bị. Trong các đợt tuyển quân, ngành Y tế đã cùng với cơ quan Quân sự các cấp khám sức khỏe cho trên 100 nghìn thanh niên để tuyển vào quân đội, tổ chức nuôi dưỡng, điều trị cho bộ đội, thương bệnh binh...
Ngành Bưu điện đã xây dựng và mở rộng thêm nhiều tuyến đường thông tin, liên lạc, dũng cảm sửa chữa đường dây trong khi địch đánh phá ác liệt, bảo đảm thông tin liên lạc thông suốt trong mọi tình huống, trong suốt cuộc kháng chiến.
Ủy ban Mặt trận Tổ quốc, Liên hiệp Công đoàn, Hội Phụ nữ, Đoàn Thanh niên đã động viên hội viên, đoàn viên tham gia chiến đấu, phục vụ chiến đấu và gương mẫu thực hiện nhiệm vụ tuyển quân; vận động Nhân dân quyên góp làm 4.520 m2 nhà ở cho thương binh, đóng hàng nghìn giường nằm, đào hàng trăm giếng nước và làm 8 vạn mét vuông lán trại cho bộ đội, đáp ứng yêu cầu cấp bách của thời chiến.
Trong trận quyết chiến chiến lược 12 ngày đêm quân và dân tỉnh Bắc Giang cùng với quân và dân Hà Nội, Hải Phòng và một số tỉnh miền Bắc đã hiệp đồng chặt chẽ, ngoan cường, chiến đấu hiệu quả, bắn rơi 81 máy bay Mỹ, trong đó có 34 chiếc máy bay chiến lược B52, 05 chiếc máy bay F111 và bắt sống nhiều giặc lái. Thắng lợi oanh liệt của quân và dân ta đã buộc đế quốc Mỹ phải ngừng ném bom, ngừng bắn phá từ vĩ tuyến 20 trở ra. Đến ngày 15/01/1973, Tổng thống Ních-xơn buộc phải tuyên bố chấm dứt hoàn toàn không điều kiện mọi hoạt động đánh phá miền Bắc và chấp nhận ký Hiệp định Paris ngày 27/01/1973 về chấm dứt chiến tranh lập lại hoà bình ở Việt Nam.
Ngô Toàn
[1] Tổng kết chiến tranh nhân dân chống chiến tranh phá hoại bằng không quân của đế quốc Mỹ trên địa bàn tỉnh Bắc Giang (1965 - 1972), Nxb QĐND HN 2007, tr 111.
[2] Lịch sử quân sự Hà Bắc, tập II cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước (1955 - 1975), Nxb Bộ CHQS tỉnh Hà Bắc; Hà Bắc 1992, tr 97.