Giá trị pháp lý - lịch sử của những sắc lệnh về bầu cử Quốc hội khóa I (1946
Ngày đăng:27-03-2016
Ngay sau Cách mạng Tháng Tám thành công, đất nước trong hoàn cảnh muôn vàn khó khăn, thách thức, để bảo đảm cho cuộc Tổng tuyển cử đầu tiên giành thắng lợi, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ lâm thời đã ban hành một loạt sắc lệnh về bầu cử. Đó là cơ sở pháp lý quan trọng để bảo đảm cho cuộc Tổng tuyển cử tự do, dân chủ.
Hưởng ứng lời hiệu triệu của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ngày 06/01/1946 với tinh thần yêu nước nồng nàn và khí thế hào hùng của Cách mạng Tháng Tám, công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên trên khắp mọi miền Tổ quốc, không phân biệt nam nữ, giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo, chính kiến đã nô nức tham gia bầu cử đại biểu Quốc hội lần đầu tiên, bất chấp sự phá hoại điên cuồng của các thế lực xâm lược và chống đối. Trên khắp cả nước 89% cử tri đã đi bỏ phiếu và bầu được 333 đại biểu đại diện cho các đảng phái, các tầng lớp nhân dân và đại diện các cộng đồng dân tộc. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 đánh dấu mốc phát triển đầu tiên trong tiến trình xây dựng thể chế dân chủ trên đất nước Việt Nam.
Nhân dân Hà Nội đi bỏ phiếu bầu Quốc hội khóa I, năm 1946 (Ảnh tư liệu)
Ngày 03/9/1945, chỉ một ngày sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra Nhà nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đề nghị một trong sáu nhiệm vụ cấp bách cần phải thực hiện ngay là "... tổ chức càng sớm càng hay cuộc tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu" để bầu ra Quốc hội. Quốc hội đó là cơ quan có quyền lực tối cao của nhân dân sẽ cử ra một Chính phủ thực sự của toàn dân và ấn định cho nước Việt Nam một hiến pháp dân chủ. Sau khi quyết định tổ chức tổng tuyển cử, Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã khẩn trương xây dựng và ban hành nhiều sắc lệnh về bầu cử nhằm bảo đảm cơ sở pháp lý cho cuộc Tổng tuyển cử được tự do, dân chủ. Bảy mươi năm sau nhìn lại, các quy định của các sắc lệnh về Tổng tuyển cử đầu tiên của nước ta vẫn còn nguyên giá trị pháp lý và lịch sử.
Mở đầu là Sắc lệnh số 14, ban hành ngày 08/9/1945 do đồng chí Võ Nguyên Giáp thay mặt Chính phủ ký. Sắc lệnh gồm 7 điều, quy định rõ trong thời hạn hai tháng kể từ ngày ký sắc lệnh sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu đại biểu Quốc hội. Sắc lệnh nêu rõ: tất cả công dân Việt Nam, cả trai và gái, từ 18 tuổi trở lên, đều có quyền tuyển cử và ứng cử, trừ những người đã bị tước mất công quyền và những người trí óc không bình thường (Điều 2). Số đại biểu của Quốc hội được quy định là 300 người; Quốc hội sẽ có toàn quyền ấn định Hiến pháp nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Sắc lệnh cũng quy định thành lập một ủy ban để dự thảo thể lệ Tổng tuyển cử và một ủy ban khởi thảo Hiến pháp.
Tiếp đó, ngày 26/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký ban hành Sắc lệnh số 39 về thành lập Uỷ ban Dự thảo thể lệ Tổng tuyển cử, gồm 9 thành viên đại diện cho các ngành, các giới, là: Trần Huy Liệu, Vũ Đình Hòe, Cù Huy Cận, Nguyễn Mạnh Hà, Nguyễn Hữu Đặng, Nguyễn Văn Chức, Nguyễn Hữu Tiêu, Lê Văn Giang và Cô Tám Kinh. Chỉ trong vòng một tháng rưỡi, Ủy ban này đã soạn thảo xong bản Dự thảo để Chính phủ lâm thời thông qua. Sắc lệnh 39 nêu rõ: khi đã nhận được danh sách đại biểu toàn quốc, Chính phủ lâm thời sẽ phải định ngày triệu tập họp Quốc hội tại Hà Nội - Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Bộ trưởng Bộ Nội vụ và Bộ trưởng Bộ Tuyên truyền phụ trách thi hành Sắc lệnh này.
Ngày 17/10/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 51 về Thể lệ Tổng tuyển cử. Đây là sắc lệnh quan trọng nhất, cụ thể và đầy đủ nhất, gồm 12 khoản, 70 điều. Trong đó, Sắc lệnh ấn định ngày 23/12/1945 sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử trong toàn cõi Việt Nam Dân chủ Cộng hoà để bầu đại biểu Quốc hội. Sắc lệnh quy định Tổng tuyển cử tiến hành theo lối phổ thông đầu phiếu, bầu cử trực tiếp và bỏ phiếu kín. Nguyên tắc tự do bầu cử trong cuộc Tổng tuyển cử được Chủ tịch Hồ Chí Minh giải thích trên báo Cứu Quốc ngày 31/12/1945: "Trong cuộc Tổng tuyển cử, hễ là những người muốn lo việc nước thì đều có quyền ra ứng cử; hễ là công dân thì đều có quyền đi bầu cử. Không chia gái trai, giàu nghèo, tôn giáo, nòi giống, giai cấp, đảng phái, hễ là công dân Việt Nam thì đều có hai quyền đó". Trong quy định về vận động tuyển cử, Sắc lệnh 51 xác định: mọi cá nhân và tổ chức được tự do vận động tuyển cử, nhưng cuộc vận động không được trái với nền Dân chủ Cộng hòa. Những cuộc tuyên truyền vận động có tính cách phương hại đến nền độc lập và cuộc trị an đều bị cấm (Điều 3), v.v... Kèm theo Sắc lệnh này là bảng ấn định số đại biểu các tỉnh và thành phố được bầu. Danh sách bầu cử sẽ do ủy ban nhân dân địa phương lập nên. Điều 17 Sắc lệnh 51 quy định: Mỗi cử tri chỉ được đi bầu một nơi hoặc ở nguyên quán, hoặc ở một nơi mà cử tri đã trú ngụ ít nhất là 3 tháng tính đến ngày bầu cử. Binh lính, thợ thuyền, công chức thì bầu cử tại nơi mình đang làm việc (Điều 19). Các chủ xưởng, nhà máy phải gửi danh sách các thợ đến ủy ban nhân dân trước thời điểm bỏ phiếu 15 ngày. Sắc lệnh còn quy định rõ: chậm nhất là 10 hôm trước ngày bỏ phiếu, ủy ban nhân dân làng, tỉnh, lỵ (hay khu phố) phải yết danh sách tất cả các người có quyền đi bầu cử (cử tri) trong làng, tỉnh lỵ (hay khu phố) ở những nơi công cộng. Tên trong danh sách xếp theo thứ tự a, b, c,... Sau khi niêm yết danh sách bầu cử, trong hạn 3 ngày mọi người có quyền khiếu nại; chậm nhất là 5 ngày trước ngày bỏ phiếu phải sửa đổi; chậm nhất 2 ngày trước ngày bầu cử, ủy ban nhân dân phải cấp thẻ cho những người có tên trong danh sách, có đóng dấu của ủy ban nhân dân. Về quyền lợi và nghĩa vụ của người bầu cử đối với mỗi lá phiếu của mình, Điều 31 của Sắc lệnh quy định: mỗi cử tri phải thân hành đi bầu, không được ủy quyền, cũng không được bầu bằng cách gửi thư, v.v...
Chủ tịch Hồ Chí Minh bỏ phiếu trong ngày Tổng tuyển cử đầu tiên, 06/01/1946
Tuy nhiên, trong thời gian thực hiện Sắc lệnh 51, nhận thấy cần phải bổ sung một số vấn đề cho hoàn chỉnh, ngày 02/12/1945, Chính phủ lâm thời tiếp tục ban hành Sắc lệnh số 71 quy định cụ thể hơn là, người ứng cử chỉ cần "gửi đơn ứng cử cho UBND nơi mình trú ngụ" thì đã được đưa vào danh sách ứng cử của tỉnh hoặc thành phố đó. Những quy định về thủ tục ứng cử đơn giản, thuận lợi và độc đáo như quy định của Sắc lệnh 71 là sự vận dụng linh hoạt và sáng tạo trong hoàn cảnh, điều kiện lúc bấy giờ.
Theo Sắc lệnh 51, ngày bầu cử được ấn định là 23/12/1945. Tuy nhiên, xét thấy còn có những nhân sĩ muốn ra ứng cử nhưng không đủ thời gian để nộp đơn, vận động bầu cử và đề nghị của tướng Trần Tu Hòa (thay mặt Bộ tư lệnh quân đội Tưởng Giới Thạch ở Việt Nam), ngày 18/12/1945, Chính phủ lâm thời đã ban hành Sắc lệnh số 76 để hoãn cuộc Tổng tuyển cử đến ngày 06/01/1946 và gia hạn nộp đơn ứng cử cho đến ngày 27/12/1945. Do điều kiện thông tin, giao thông còn khó khăn, Sắc lệnh 76 có bổ sung thêm: nơi nào lệnh hoãn không đến kịp, Chính phủ vẫn cho phép tiến hành Tổng tuyển cử theo quy định cũ là ngày 23/12/1945 và sẽ báo cáo ngay kết quả với Bộ Nội vụ. Cùng với các sắc lệnh, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng có nhiều bài viết, lời kêu gọi về bầu cử. Trong lời kêu gọi toàn dân đi bỏ phiếu, đăng trên Báo Cứu quốc, Người viết: “Ngày mai, là một ngày vui sướng của đồng bào ta, vì ngày mai là ngày Tổng tuyển cử, vì ngày mai là một ngày đầu tiên trong lịch sử Việt Nam mà nhân dân ta bắt đầu hưởng thụ quyền dân chủ của mình”; “Ngày mai, dân ta sẽ tự do lựa chọn và bầu ra những người xứng đáng thay mặt cho mình, và gánh vác việc nước”.
Các sắc lệnh về Tổng tuyển cử đầu tiên ở nước ta thể hiện nội dung, yêu cầu các nguyên tắc bầu cử phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín.
Nguyên tắc bầu cử phổ thông đầu phiếu trong cuộc tổng tuyển cử đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh xác định tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời ngày 03/9/1945: Tất cả công dân trai, gái 18 tuổi đều có quyền bầu cử và ứng cử, không phân biệt giàu nghèo, tôn giáo, dòng giống. Nguyên tắc này được chính thức quy định tại Điều 2 Sắc lệnh số 14 và Sắc lệnh số 51.
Nguyên tắc bầu cử phổ thông nhằm thu hút tuyệt đai đa số dân cư ở trong nước đạt đến độ tuổi trưởng thành nhất định theo quy định của pháp luật tham gia vào bầu cử.
Về nguyên tắc bầu cử bình đẳng: Sắc lệnh về tổng tuyển cử quy định nguyên tắc bầu cử bình đẳng, nhất là bình đẳng nam nữ về quyền bầu cử, ứng cử ngay trong những ngày đầu tiên của nền Cộng hòa dân chủ nhân dân ở nước ta có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Để đảm bảo nguyên tắc bầu cử bình đẳng, pháp luật về Tổng tuyển cử quy định rõ: Mỗi cử tri chỉ được đi bầu một nơi hoặc ở nguyên quán, hoặc ở một nơi mà cử tri đã trú ngụ ít nhất 3 tháng tính đến ngày bầu cử. Người ứng cử được tự do ứng cử nơi mình chọn lấy nhưng chỉ một nơi ấy thôi. Để bảo đảm nguyên tắc bình đẳng, nếu người ứng cử nào ứng cử nhiều nơi hoặc khai gian những giấy chứng thực về điều kiện ứng cử sẽ bị phạt...
Nguyên tắc bầu cử trực tiếp được quy định trong sắc lệnh về Thể lệ Tổng tuyển cử rất cụ thể, rõ ràng. Cụ thể, Sắc lệnh số 51 về Thể lệ tổng tuyển cử quy định: "Mỗi cử tri phải thân hành đi bầu, không được ủy quyền, cũng không được bầu bằng cách gửi thư". Chính những quy định cụ thể, rõ ràng này là một trong những lý do giải thích vì sao cuộc Tổng tuyển cử ngày 06/01/1946 nguyên tắc này đã được thực hiện một cách nghiêm túc.
Nguyên tắc bỏ phiếu kín cũng được quy định cụ thể để bảo đảm bí mật, an toàn và tự do ý chí của cử tri. Để giúp những cử tri không biết chữ thực hiện được quyền bầu cử, Sắc lệnh 51 quy định: trước khi bắt đầu bỏ phiếu, sẽ lập một tiểu ban 3 người (một người của ban phụ trách cuộc bầu cử, hai người do dân làng, tỉnh lỵ (hay khu phố) cử ra viết giúp cho người đi bầu, một người viết, hai người kiểm tra. Khi viết xong, tiểu ban đó phải tuyên thệ trước mặt các người đi bầu rằng: viết đúng theo lời người đi bầu và giữ bí mật (Điều 36-38 Sắc lệnh 51).
Tổng tuyển cử bầu Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa là một sự kiện trọng đại của dân tộc. Quốc hội ra đời vừa là thành quả, vừa là yêu cầu bức thiết của cách mạng. Quốc hội có đại biểu của cả ba miền Bắc - Trung - Nam; có đại diện của tất cả các ngành, các giới, các giai cấp, tầng lớp xã hội, tôn giáo, dân tộc, của tất cả những người không đảng phái và các đảng phái chính trị khác nhau. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử đánh dấu bước phát triển nhảy vọt về thể chế dân chủ của nước ta. Nguyên tắc bầu cử bình đẳng, không phân biệt nam, nữ mà các sắc lệnh về Tổng tuyển cử 06/01/1946 quy định có ý nghĩa và giá trị tiến bộ, nhân văn sâu sắc. Lần đầu tiên trong lịch sử dân tộc, người phụ nữ Việt Nam được hưởng quyền bầu cử, ứng cử như nam giới - điều mà chỉ một số ít các nước tiên tiến đương thời có nền pháp lý dân chủ, văn minh, tiến bộ mới làm được. Người dân Việt Nam từ thân phận nô lệ đã trở thành người chủ thực sự của một nước tự do, độc lập. Thắng lợi của cuộc Tổng tuyển cử còn khẳng định niềm tin tuyệt đối của nhân dân ta vào Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh; đánh dấu bước trưởng thành của Đảng, Nhà nước cách mạng, mở ra một thời kỳ mới của đất nước với một hệ thống tổ chức lập pháp, hành pháp đầy đủ về mặt pháp lý. Đồng thời, khẳng định với thế giới rằng: nhân dân Việt Nam có quyền và đã thực sự có đủ khả năng để tự quyết định vận mệnh lịch sử của mình, tự lựa chọn đường lối dựng xây chế độ xã hội mới.
Ngày nay, trong điều kiện đất nước phát triển, hệ thống văn bản pháp lý về bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp khá hoàn chỉnh, song những sắc lệnh về Tổng tuyển cử ngày 06-01-1946 do Chính phủ lâm thời ban hành vẫn còn nguyên giá trị./.