"... Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy".
Trong 15 năm lãnh đạo cách mạng từ năm 1930 đến năm 1945, trải qua các cuộc đấu tranh đầy gian khổ hy sinh, Đảng ta đã từng bước vận động, giáo dục quần chúng nhân dân, qua ba cao trào cách mạng lớn giai đoạn 1930-1931, giai đoạn 1936-1939, giai đoạn 1939-1945 như ba cuộc tổng diễn tập, với khí thế cách mạng vĩ đại của quần chúng, nắm chắc thời cơ lịch sử, với một nghệ thuật lãnh đạo và tổ chức khởi nghĩa tài tình, Đảng ta lãnh đạo cuộc Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thành công trọn vẹn.
Từ ngày 25/8 đến 2/9/1945, trong căn buồng nhỏ thiếu ánh sáng trên gác hai của nhà số 48 Hàng Ngang, một trong ba mươi sáu phố phường cổ kính của Hà Nội, Bác Hồ viết bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
Ngày 2/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, thủ đô Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt quốc dân đồng bào đọc Bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam châu Á.
Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. (Ảnh tư liệu TTXVN)
Mở đầu Tuyên ngôn Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Hỡi đồng bào cả nước. Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”.
Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Suy rộng ra, câu nói này có ý nghĩa là: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Bản tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”.
Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử đã được các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực nghiên cứu và làm rõ. Tuy nhiên, đến nay vẫn còn có người khi đọc văn bản lịch sử này đã đặt ra câu hỏi: Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập của mình bằng những câu trích dẫn từ hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp? Ngay cả một số nhà sử học Mỹ cũng luôn nói rằng, Hồ Chí Minh đã mở đầu bản “Tuyên ngôn độc lập” của Việt Nam bằng cách trích dẫn: “Tuyên ngôn” của Mỹ. Điều này có phần nào không đúng và chưa đủ. Bởi lẽ, Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới như UNESCO đã tôn vinh. Người nhắc đến hai văn kiện lịch sử ấy với lòng trân trọng đặc biệt của một trí tuệ lớn đối với sự phát triển của văn minh nhân loại mà Cách mạng giành độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Cách mạng tư sản Pháp năm 1789 mang lại. Đây là những thành quả văn hóa của nhân loại, là dấu mốc lớn của lịch sử loài người. Đó là nền tảng và là tiền đề để Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, chính cuộc Cách mạng mà dân tộc Việt Nam đã giành được vào mùa Thu năm 1945 là bước đi tiếp, đồng thời cũng là một cái cột mốc cho sự phát triển của lịch sử giải phóng con người thuộc các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Vì đó là mẫu hình đầu tiên và cũng là ngọn cờ đầu của cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa nhỏ, yếu, thoát khỏi ách đô hộ, thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới mà cách mạng Việt Nam do Đảng và Bác lãnh đạo đã giương cao.
Cần phải hiểu thêm rằng: Bản tuyên ngôn của nước Mỹ ra đời năm 1776, nhưng mãi đến năm 1870, những người đàn ông da màu mới có quyền đi bỏ phiếu. Với phụ nữ, sự thừa nhận về sự bình đẳng chính trị còn muộn hơn nữa. Đó là năm 1923. Như vậy, đàn ông da đen có quyền được đi bầu sau 95 năm và phải mất thêm 50 năm sau nữa, phụ nữ Mỹ mới được đi bỏ phiếu. Còn tại Việt Nam, trước năm 1945, nước ta vẫn là xã hội nặng về ý thức Nho giáo “trọng nam, khinh nữ”. Vì vậy, với bản Tuyên ngôn độc lập nổi tiếng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt cho nhà nước mới đã tuyên bố độc lập tự do và bình đẳng cho toàn thể mọi người dân Việt Nam không phân biệt dân tộc, giới tính, tôn giáo… Đây là điều thể hiện sự tiến bộ vượt trội của Tuyên ngôn độc lập, so với hai bản Tuyên ngôn của Mỹ và Pháp, do Chủ tịch Hồ Chí Minh khởi thảo.
Bảy mươi mốt năm đã trôi qua, những tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945 đã trở thành sức mạnh to lớn, đưa dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn thách thức, thực hiện lời thề với Người trong ngày lễ độc lập “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. Tuyên ngôn Độc lập đã và đang khơi nguồn sáng tạo soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kỳ phát triển mới. Vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.