Bắc Giang: Kết quả nổi bật sau 15 năm thực hiện Chỉ thị số 49- CT/TW của Ban Bí thư về “ Xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”
Ngày đăng:05-06-2020
Gia đình là tế bào của xã hội; là nơi duy trì nòi giống, là môi trường quan trọng hình thành, nuôi dưỡng và giáo dục nhân cách con người, bảo tồn và phát huy văn hóa truyền thống tốt đẹp, chống lại tệ nạn xã hội, tạo nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ và hạnh phúc là trách nhiệm của nhiều ban ngành, nhiều tổ chức, xã hội và của mỗi công dân.
Ảnh minh họa
Gia đình và công tác gia đình luôn là mối quan tâm của Đảng và Nhà nước ta. Nhiều văn kiện của Đảng, chính sách của Nhà nước về gia đình đã được ban hành. Nghị quyết Đại hội XI của Đảng:"Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, là môi trường quan trọng trực tiếp giáo dục nếp sống và hình thành nhân cách". Đặc biệt, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng đã nêu rõ mục tiêu, nhiệm vụ: “Thực hiện Chiến lược phát triển gia đình Việt Nam. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc, văn minh”.
Nhận thức rõ việc xây dựng gia đình thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một nhiệm vụ chính trị quan trọng, sau khi có Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (Khoá IX); Ban Thường vụ Tỉnh uỷ, UBND tỉnh ban hành nhiều văn bản lãnh đạo, chỉ đạo về công tác này như: Kế hoạch số 68-KH/TU ngày 26/4/2005 về việc nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khoá IX) trong toàn Đảng bộ; Chương trình hành động số 74-CTr/TU ngày 25 tháng 7 năm 2005 thực hiện Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương (khoá IX); Chỉ thị số 09-CT/TU, ngày 07/5/2007 của Tỉnh ủy về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng đối với công tác dân số, gia đình và trẻ em trên địa bàn tỉnh..; UBND tỉnh ban hành Kế hoạch số 2677/KH-UBND ngày 21/11/2006 về việc thực hiện Chiến lược xây dựng gia đình Việt Nam đến năm 2010 trên địa bàn tỉnh Bắc Giang…
Sau 15 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX), Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đã đạt được nhiều kết quả tích cực: các cấp ủy đảng từ tỉnh đến cơ sở đã triển khai thực hiện Chỉ thị số 49-CT/TW kịp thời, nghiêm túc; các phong trào thi đua được quan tâm chỉ đạo rộng rãi trong các cấp, các ngành và nhân dân, được nhân dân tích cực ủng hộ. Ban Chỉ đạo công tác gia đình các cấp đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền các cấp triển khai có hiệu quả công tác gia đình trên địa bàn tỉnh, nhiều địa phương có cách làm hay, sáng tạo, hiệu quả.Kinh tế hộ gia đình trên địa bàn tỉnh đã có bước chuyển biến mạnh mẽ, ngày càng ổn định và phát triển. Chất lượng cuộc sống của hộ gia đình, mỗi thành viên ngày càng được nâng cao, kinh tế hộ gia đình phát triển năng động, người dân đã biết phát huy lợi thế trong từng hộ gia đình để mở mang sản xuất, ngành nghề dịch vụ, tăng thu nhập, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển các hình thức kinh tế hợp tác, hợp tác xã, kinh tế trang trại. Phong trào xoá đói giảm nghèo với những mô hình phát triển kinh tế trang trại, phát triển các làng nghề, các dịch vụ đã tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho nhiều hộ gia đình thoát nghèo vươn lên khá giả, tỷ lệ hộ nghèo năm 2005 là 30,67%, năm 2009 giảm xuống còn 13,7 % đến năm 2019 hộ nghèo giảm còn 5,01%. Thu nhập bình quân đầu người tăng từ 650 USD năm 2010 lên 2.600 USD năm 2019. Công tác khám chữa bệnh cho người nghèo, trẻ em dưới 6 tuổi và các đối tượng chính sách xã hội được thực hiện ở 100% các cơ sở y tế trong tỉnh. Xuất hiện ngày càng nhiều phong trào, tấm gương điển hình tiên tiến như: Phong trào xây dựng “gia đình nông dân hăng hái thi đua sản xuất, kinh doanh giỏi, đoàn kết giúp nhau phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo”; “Phụ nữ tích cực học tập, lao động sáng tạo, xây dựng gia đình hạnh phúc”, “Ông bà mẫu mực, con cháu thảo hiền”... ; xuất hiện nhiều gia đình tiêu biểu trong học tập, lao động sản xuất, nhiều mô hình sản xuất kinh doanh giỏi, tích cực xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu, các phong trào thể dục thể thao, văn hóa văn nghệ.
Công tác kiện toàn tổ chức bộ máy và đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình từ tỉnh đến cơ sở được quan tâm. 100% các huyện, thành phố và các xã, phường, thị trấn đã thành lập được Ban Chỉ đạo công tác gia đình và ban hành Quy chế hoạt động, phân công nhiệm vụ cụ thể cho các ngành thành viên. Toàn tỉnh hiện có 1.054 câu lạc bộ Phòng chống bạo lực gia đình; 01 Mô hình phòng, chống bạo lực gia đình; 410 mô hình hoạt động độc lập; 1.054 câu lạc bộ gia đình phát triển bền vững; 1.054 nhóm phòng, chống bạo lực gia đình; 608 địa chỉ tin cậy ở cộng đồng; 516 đường dây nóng. Qua đó, đã góp phần quan trọng làm giảm thiểu số vụ bạo lực gia đình trên địa bàn toàn tỉnh. Góp phần xây dựng, ổn định trật tự xã hội, khẳng định vai trò quan trọng của gia đình đối với cộng đồng, xã hội.
Phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa đã trở thành thường xuyên và ngày càng hiệu quả, có chiều sâu; tỷ lệ gia đình, thôn bản, khu phố văn hóa năm sau cao hơn năm trước; các phong trào thi đua được phát triển và nhân rộng, phát triển kinh tế hộ gia đình ngày có hiệu quả, góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần của mọi gia đình và xã hội; nhận thức của nhân dân về vai trò của gia đình có nhiều tiến bộ; vai trò, trách nhiệm của ông bà, cha mẹ, những người lớn trong gia đình được phát huy; góp phần xây dựng tình làng, nghĩa xóm luôn gắn bó, đoàn kết, an ninh chính trị ổn định, đời sống nhân dân được cải thiện.
Công tác xây dựng gia đình văn hóa trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước luôn được các cấp, các ngành quan tâm thực hiện, được nhân dân đồng tình ủng hộ, tỷ lệ gia đình văn hóa ngày càng tăng. Năm 2005, số gia đình văn hóa là 266.755/357.304 hộ (chiếm 74,7%); năm 2014, số gia đình văn hóa là 362.806/423.030 hộ (chiếm 86%); năm 2019, toàn tỉnh có 402.236/450.051 hộ gia đình đạt chuẩn văn hóa, đạt 89,4%.
Có thể khẳng định, với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy đảng, chính quyềnqua 15 năm triển khai thực hiện Chỉ thị số 49 - CT/TW của Ban Bí thư trên địa bàn tỉnh đã đạt được thành tựu quan trọng, góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho các gia đình, phát triển kinh tế- xã hội ở địa phương, cơ sở. Công tác hỗ trợ cho các gia đình đặc biệt khó khăn, gia đình có công với cách mạng, vùng khó khăn được các cấp ủy, chính quyền địa phương quan tâm. Những giá trị nhân văn mới, tiêu biểu là bình đẳng giới và quyền trẻ em; vai trò của người phụ nữ trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao, từng bước khẳng định vai trò của gia đình đối với xã hội và xã hội đối với gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng tỉnh Bắc Giang ngày càng giàu đẹp, văn minh…
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác gia đình thời gian qua trên địa bàn tỉnh vẫn còn một số mặt hạn chế, bất cập, đó là: số vụ ly hôn, ly thân, sống thử không đăng ký kết hôn, tình trạng buôn bán phụ nữ, xâm hại tình dục trẻ em diễn biến phức tạp. Tình trạng phụ nữ thất bại trong hôn nhân với người nước ngoài kèm theo số trẻ em là con lai trở về sống tại địa phương là những thách thức không nhỏ đặt ra cho công tác gia đình và cho cả xã hội. Một số địa phương còn tình trạng sinh con thứ 3, trong đó có cả cán bộ, đảng viên. Công tác kiểm soát việc lựa chọn thai nhi còn nhiều gặp nhiều khó khăn dẫn tới mất cân bằng giới tính khi sinh trên địa tỉnh. Một số tệ nạn xã hội có xu hướng tăng và diễn biến phức tạp; các giá trị đạo đức truyền thống của gia đình như "hiếu, nghĩa, thủy chung, kính trên nhường dưới” ở một số gia đình có biểu hiện xuống cấp...
Ảnh minh họa
Để khắc phục những hạn chế, tiếp tục thực hiện tốt Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban Bí thư trên địa bàn tỉnh trong thời gian tới, các cấp ủy, chính quyền cần quan tâm thực hiện các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu như:
Một là, Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể và cộng đồng về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của gia đình và công tác xây dựng gia đình trong thời kỳ CNH-HĐH và hội nhập quốc tế.
Hai là, Tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo trong thực hiện Chỉ thị số 49-CT/TW và một số văn bản khác của Trung ương, của tỉnh về công tác gia đình như: Thông báo Kết luận số 26-TB/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng; Chương trình hành động số 74-CTr/TU ngày 25 tháng 7 năm 2005 thực hiện Chỉ thị số 49-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương (khoá IX); Chỉ thị số 09-CT/TU, ngày 07/5/2007 của Tỉnh ủy và các chương trình, kế hoạch, đề án của Trung ương của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh về công tác gia đình.
Ba là,Tăng cường tổ chức phối hợp với các ban ngành, đoàn thể đẩy mạnh các hoạt động tuyên truyền, vận động nhằm tạo ra phong trào xã hội hóa mạnh mẽ để chăm lo, xây dựng gia đình; quan tâm phát động các phong trào thi đua yêu nước thu hút đông đảo quần chúng nhân dân tham gia.
Bốn là, Chỉ đạo đẩy mạnh phát triển kinh tế gia đình tạo việc làm, tăng thu nhập cho mỗi gia đình, triển khai lồng ghép các chương trình phát triển kinh tế xã hội, kết hợp với chính sách Dân số, kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe trẻ em, khuyến khích các gia đình giúp nhau phát triển kinh tế.
Năm là, Kiện toàn tổ chức bộ máy, tăng cường bồi dưỡng, tập huấn nâng cao năng lực trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác gia đình từ tỉnh đến cơ sở, đáp ứng ngày càng cao nhiệm vụ công tác gia đình trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất nước.
Sáu là, Xây dựng các cơ chế, chính sách nhằm tạo điều kiện cho việc tiếp tục đẩy mạnh phát triển kinh tế hộ gia đình, tạo mọi điều kiện cho mọi thành viên của gia đình được hưởng thụ các phúc lợi xã hội. Nắm và chủ động đề ra biện pháp kiểm soát, giải quyết kịp thời các nguyên nhân dẫn đến bạo lực gia đình, ly hôn, ly thân, quan hệ tình dục và hôn nhân đồng giới, buôn bán phụ nữ và trẻ em, xâm hại tình dục trẻ em, bất bình đẳng giới trong gia đình. Ngăn ngừa thông tin và sản phẩm văn hoá độc hại từ bên ngoài tác động vào gia đình.
Bảy là, Tạo điều kiện cho mọi gia đình được tiếp cận kiến thức, pháp luật, văn hoá, y tế, giáo dục, khoa học kỹ thuật. Thực hiện đầy đủ chính sách ưu đãi đối với các gia đình có công với cách mạng; chính sách trợ giúp xã hội đối với các gia đình gặp rủi ro, thiên tai, gia đình neo đơn, gia đình có người tàn tật, gia đình nghèo./.